Loading ...

Lành Dữ Nghiệp Báo (Phần Cuối)

Lành Dữ Nghiệp Báo (Phần Cuối)

Một ly sữa

   Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền học. Một ngày nọ, nhận thấy mình chỉ còn mỗi một hào mà bụng đang đói, cậu định bụng sang nhà kế bên xin một bữa ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa. Bối rối trước cuộc gặp gỡ không chờ đợi này, nên thay vì xin ăn, cậu lại xin uống.  Người phụ nữ đoán là cậu đang đói, bèn mang cho cậu một ly sữa lớn.

   Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi:

   - Cháu phải trả cô bao nhiêu tiền ạ? 

   Người phụ nữ trả lời:

   - Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt.

   Cậu bé cảm kích đáp:

   - Cháu sẽ biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu!

   Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn và niềm tin của cậu vào con người như cũng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu gần như muốn đầu hàng số phận.

   Nhiều năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương đều bó tay. Họ chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này. Tiến sĩ Ken-ly được mời đến tham vấn. Khi ông nghe tên thị trấn nơi người phụ nữ ở, một tia sáng ánh lên trong mắt ông, ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ngay ra ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hội chẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức để cứu sống bệnh nhân này. Và cuối cùng, nỗ lực của ông đã được đền đáp.

   Tiến sĩ Ken-ly đề nghị phòng y chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân xem lại. Ông viết vài chữ bên lề của tờ biên lai và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn, biết rằng mình sẽ phải thanh toán nó cho đến hết đời mới xong. Bỗng nhiên, có cái gì đó bên lề khiến bà chú ý và đọc được những dòng chữ này:

                  “TRỊ GIÁ HÓA ĐƠN = MỘT LY SỮA”

                                      Ký tên: tiến sĩ Ken-ly. 

 

Phước báo hiện tiền

   Thuở xưa, có một cặp vợ chồng rất nghèo khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, sống rất khổ sở, thường bị đói lạnh bức bách mà không làm gì khác hơn để thay đổi tình thế được. Tuy họ đi khắp nơi tìm việc khó nhọc để làm, nhưng việc làm quá khó kiếm. Nhìn thấy thiên hạ giàu có dư dả còn mình thì cùng khốn như thế, hai vợ chồng không ngừng cùng nhau than vắn thở dài. Trở về căn nhà rách nát của mình, người chồng tên Kệ Di La, ngồi trước mặt vợ nói rằng:

   - Đức Phật có nói: “Người ta nghèo khổ là vì kiếp trước bủn xỉn tham lam. Tuy giàu có, gia tài vạn ức mà nếu không tu phúc, không bố thí thì kiếp sau chắc chắn không thể sống sung túc được”.

   Kệ Di La ngừng một chút, rồi lại nói tiếp: 

   - Than ôi! Chúng ta kiếp trước không tu phúc, không biết gieo trồng phúc điền nên kiếp này cùng khốn như vầy!

Vợ ông nghe thế, vọt miệng nói mà không suy nghĩ:

   - Thế thì bây giờ mình tu phúc đi! Đời này mình không giàu có, thì hy vọng đời sau khá hơn!

   - Đúng vậy, tôi cũng nghĩ như bà, nhưng hiện tại ba bữa ăn một ngày mình còn kiếm không ra, lấy tiền đâu mà bố thí cúng dường đây?

   Nói tới tiền thường làm cho người ta nhức đầu, không biết phải làm cách nào để đào cho ra, nhưng đàn bà thường nhanh trí nên người vợ nghĩ ra ngay một giải pháp, nói với chồng rằng:

   - Đừng lo! Ông hãy đem tôi đi bán làm đầy tớ cho người ta, lấy số tiền đó làm phúc, khó gì? 

Bà thấy giải pháp của mình rất hay, nhưng Kệ Di La lắc đầu thở dài: 

   - Không! Không thể làm như thế được! Tôi đem bà đi bán cho người ta rồi, làm sao tôi sống nổi đây! 

   Vì cặp vợ chồng tuy nghèo khổ nhưng tình cảm của họ với nhau rất mặn nồng. Người vợ lại nói:

   - Nếu ông không bỏ tôi ra được, thì cả hai chúng ta đều đem thân đi bán để lấy tiền làm Phật sự, thì việc thiện đó lại càng có giá trị chứ sao!

   Hai vợ chồng bàn tính và quyết định rồi, bèn đến nhà một phú ông kể rõ ngọn nguồn. Phú ông ưng thuận mua họ, hai bên thỏa thuận giá cả, kỳ hạn cho họ bảy ngày để lập hội trai tăng cúng dường, sau bảy ngày, hai vợ chồng sẽ trở lại nhà phú ông làm đầy tớ trả nợ.

   Cầm số tiền trong tay, hai vợ chồng Kệ Di La mừng rỡ vô cùng, chạy mau đến chùa lập hội trai tăng cúng dường. Hai người quên hết tất cả mọi khổ sở, hết lòng hết dạ phụng sự đại chúng. Họ cảm thấy rằng đó là những ngày quý giá nhất đời họ, và cũng là những gì cuối cùng thuộc về họ. Trong suốt bảy ngày ấy, họ muốn thay đổi vận mệnh của mình và tu nhân phước đức cho đời vị lai. Sáu ngày trôi qua, đến ngày cuối, bỗng nhiên nhà vua cũng đến chùa mở hội trai tăng. Theo tục lệ thì khi vua đến, bất kỳ người nào cũng phải nhường chỗ cho vua cúng dường trước, nhưng Kệ Di La nhất định không chịu nhường. Nhà vua không bằng lòng, cho triệu Kệ Di La đến. Trước mặt nhà vua, Kệ Di La thật tình tâu rằng: 

   - Tâu bệ hạ, xin bệ hạ tha lỗi hạ thần vô lễ. Chỉ vì hôm nay là ngày cuối cùng thuộc về hạ thần, ngày mai hạ thần thuộc về người khác mất rồi. Cho nên hạ thần không thể nhường cho bệ hạ ngày cuối cùng của hạ thần để làm việc trai tăng.

   Nhà vua nghe thế, bèn hỏi Kệ Di La nhân duyên gì lại đến đây làm lễ trai tăng cúng dường, và nhất là tại sao bắt đầu từ ngày hôm sau lại thuộc về người khác? 

   Kệ Di La kể hết mọi sự việc cho vua nghe, vua cảm thấy tội nghiệp họ và khen ngợi tinh thần không tiếc tiền, không tiếc thân, không tiếc mạng sống của họ. Vì vậy, vua ban cho họ rất nhiều quần áo, của cải quý giá và còn cấp cho rất nhiều đất để họ lấy đó kiếm sống.

   Nhân quả không bao giờ lường dối ai, người nào chân thành phát tâm bố thí cúng dường tự nhiên sẽ gặp cơ hội phát tài không thể nào ngờ được!

 

Chuyện dũng mãnh

   Xưa kia, có một vị Thiền sư tên là Diệu Pháp ở chùa Dư Sơn, tuổi đã ngoài bảy mươi. Một hôm, Thiền sư đang ngồi niệm Phật trên bàn thạch, bỗng thấy một người nhảy xuống suối tắm, cách thầy độ mười thước. Thầy trừng mắt nhìn một hồi lâu, rồi than rằng:

   - Bản tính chúng sinh chẳng phải là dữ, chỉ vì mê mà đến nỗi gây nên tội ác như kia, đời nay mắc lưới pháp luật, đời sau phải đọa vào tam đồ. Biết mấy kiếp mới ra cho khỏi.

Người đi tắm kia độ ba mươi tuổi, mi to mày rậm, vai rộng lưng dài, nghe tiếng được tiếng mất, vội vàng lên bờ mặc áo rồi đến hỏi:

   - Tôi tắm can chi đến thầy, mà thầy lại rủa tôi chi chi, những là tam đồ, là độc ác?

   Thầy Diệu Pháp đáp:

   - Nam mô A Di Đà Phật! Tôi là người tu hành, lẽ đâu sinh lòng rủa ai. Anh đừng ngờ vực mà mang lấy tội. Vì tôi thấy anh tai nạn sắp đến nơi, sẽ bị gông cùm khổ sở nên tôi thương xót, thở than một đôi lời, chứ không có ý gì ác cả.

   - Thầy già lẫn quáng mắt, thầy sao biết được tai nạn của tôi mà nói càn như vậy?

   - Anh thực là nóng nảy quá, tôi tu hành đã lâu năm, lẽ đâu phạm giới vọng ngữ. Khi vừa thấy anh tôi đã biết nghề anh làm không phải là nghề lương thiện. Có nhân duyên thì có quả báo, anh còn mê nên không biết đó thôi. Ước chừng trong một tháng nữa, dù anh cao bay xa chạy thế nào cũng mắc lưới pháp luật!

   Anh ta giật mình, chắp tay lạy thầy và nói:

   - Thầy thực là một vị đại sư đoán không sai một mảy may, con tự biết tội lỗi đã nhiều, xin thầy liệu có phương pháp gì cứu con khỏi tai, khỏi nạn!

   - Cứu khổ cứu nạn là bản nguyện của đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhưng từ nay về sau, anh phải biết sửa đổi tâm tánh, thường niệm tên Ngài thì thế nào cũng thoát khỏi tai ách.

   - Bạch thầy, ngài Quán Thế Âm Bồ Tát vì sao mà được phép mầu như vậy?

   - Các vị Phật, Bồ tát cũng một tâm như mình cả, vì có công tu tập nên tâm ấy được hoàn toàn tấn hóa, rũ sạch các mê lầm và chứng được công đức vô lượng vô biên. Người đời cũng một tâm như vậy, nhưng vì không chịu tu tập nên bị màn vô minh bao phủ, dễ mắc vào lưới tham sân si, phải luân hồi mãi mãi. Cổ nhân có câu: “Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục”, nghĩa là một phen mất thân người, muôn kiếp khó được lại. Như thế, được sinh làm người, nghe được Phật pháp mà không biết tu hành cho giải thoát, thì uổng biết chừng nào. Lỡ làm điều tội lỗi rồi phải sa đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì muôn kiếp thoát ra không khỏi.    Anh nên nghe lời tôi, về nhà tự tu tự tỉnh, đừng để đến khi lửa cháy đến mi thì dù có lo cũng không kịp nữa!

   Anh nghe rồi, chào thầy đi về, ra tuồng hối hận. Vài bữa sau, khi thầy đương ngồi tọa thiền niệm Phật, thấy một người đến trước mặt quỳ lạy ba lạy và xin qui y làm đệ tử.

   Thầy hỏi:

   - Anh có phải là người tắm bữa trước không? Anh quê quán ở đâu, suy nghiệm thế nào mà nay đến đây xin xuất gia đầu Phật?

   - Nam mô A Di Đà Phật! Tên con là Dũng Mãnh, ở làng này, con nhà lương thiện, khi còn nhỏ cũng có theo học chút ít về Nho giáo, nhưng chẳng may cha mẹ mất sớm không ai dạy bảo, rong chơi trong xóm cờ đám bạc, bày mưu định kế, gian xảo đủ điều, mà gia tư càng ngày càng sa sút. Khi ấy, các bạn lại rủ rê thêm một nghề ăn trộm nữa. Lòng tham sẵn, biết đâu là phải trái, miễn được đồng tiền. Ban đầu còn e ngại rụt rè, đến sau tập dữ thành tánh, chỉ biết rình ngõ dò đường cho thành thuộc, nghĩ mưu mẹo cho khôn ngoan, cốt lấy được nhiều tiền là sung sướng, chứ không biết gì nữa hết. Con ma tham dục đã dắt lối đưa đường, dù mưa to gió lớn cũng ngồi chỗ xó vườn không biết chi lạnh lẽo. Một mực trèo tường đào ngạch, cậy đố, khoét vách. Vào nơi hổ huyệt mà cũng không biết gì là nguy hiểm, dẫu được của như nước mà cũng không giàu có hơn ai. 

   Ngày tháng qua đi, từ khi gặp thầy, về nhà ngồi nghĩ lại những hành động ấy mà rùng mình rởn ốc.

Ôi! Vì con mà bao nhiêu người tan nát cửa nhà, vì con mà bao người phải đau lòng xót ruột. Càng suy nghĩ càng thương, thương đến nỗi ước chừng các của lấy được giá có còn cũng đem trả lại.

   Ngờ đâu, ngẩn ngơ đôi ba ngày mà xem trong lưng gạo không tiền hết, con ma ích kỷ thúc giục bên tai con, cái đói đã tới kề bên tai. Thôi, xếp đạo đức lại mà đi kiếm gạo.

Bấy lâu rình nhà bà Quản Oai một nhà giàu có, đường xá thông làu cả rồi. Hôm nay lại mưa to gió lớn, trời tối như mực, cũng nên qua nhà ấy mà kiếm món tiền tiêu, thói cũ lại tuôn ra như nước.

   Con bất giác vai mang đồ nghề bước ra, đi thẳng đến nhà bà Quản Oai, bấy giờ chỉ có một mẹ một con ở nhà nên con lách dậu, thuốc chó rồi thì chắc có lẽ đêm ấy cũng được món tiền kha khá. Con lần bước đến gần, nhìn vào cửa thấy một người con gái tuổi trẻ đương ngồi tựa án, chong ngọn đèn khuya, đầu bù tóc rối ra dáng âu sầu khổ não.

   Con đứng nép bên chái nhà chờ cho cô ta đi ngủ, ngờ đâu từ canh một tới canh tư mà thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng đi ra đi vào, tâm sự con đêm hôm ấy bối rối tợ tơ vò.

   Khi nhớ đến thầy dạy thì muốn quay trở về, mà cứ hễ cất bước đi thì con ma tham dục kéo níu trở lại, không sao về được. Đêm khuya thanh vắng, nghe trong mình mỏi mệt nhường nào thì lòng tham lại thôi thúc lên chừng nấy. Khi sắp đến canh tư, trong lòng con chỉ còn là một thằng ăn trộm hung dữ mà thôi, không còn nhớ lời thầy dạy bảo gì cả, rồi lại nhìn lối cửa sau một lần nữa cũng vẫn thấy cô ta còn thức. Khi bấy giờ giận tức nổi lên, con rút dao phá cửa quyết vào giết đi cho đáng kiếp. Giận thực sao mà giận. Đến bây giờ, con nghĩ lại thật là vô lý quá, nhưng khi đó lòng tham đã nổi lên còn biết chi là phải trái. Của người ta để trong rương mà nghĩ như của mình, thì người thức không cho mình lấy tức là người giữ, phản đối với mình, vì vậy mà mình giận, mình quyết giết người ta cho bằng được.

    Ôi! Cái năng lực của con ma tham dục nghĩ mà ghê mà sợ. Một người đã được nghe lời phải, lại biết hối hận như con mà còn tối tăm mù mịt, làm càn làm dở, huống chi ai ai. Thật đáng thương cho những người còn mắc trong vòng tham dục.

Con vừa phá cửa vào thì người con gái ấy đứng dậy một cách tỉnh táo, bảo con rằng:

   “Chú ơi! Chú cứu mẹ tôi với, mẹ tôi đau mệt, thầy thuốc chạy cả chỉ còn một chút hơi thở thoi thóp mà thôi. Anh tôi đi xa, tin không về kịp, không biết làm sao bây giờ. Chú có phương chi cứu mẹ tôi thì dù bổ đầu lấy não, mổ bụng lấy gan tôi cũng đành lòng chết thay cho mẹ tôi. Xin chú làm ơn cứu mẹ tôi với!”.

   Lúc ấy, kỳ thực cô ấy chỉ biết có mẹ đau mệt, gặp ai thì xin cứu mạng chứ không còn biết chi nữa cả. Con thấy lòng cô ấy chí hiếu như vậy cũng cảm động rơi nước mắt. Sực nhớ lại thầy dạy, con liền khuyên cô ta đặt bàn thờ giữa sân mà niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu Ngài linh ứng cứu cho bà mẹ sống lại.

Cô ta nghe lời mừng rỡ khôn xiết, đặt hương án ngoài sân, khấn quỳ niệm Phật, lại nhờ con ngồi bên trông giúp bà mẹ cô ta.

   Con nghĩ cũng ngán thiệt, ai ngờ trong đời lại có người lạ như thế, ăn trộm đã phá cửa vào nhà, không kêu la người cứu thì thôi, lại trao cả nhà cửa tài sản cho người ăn trộm nữa.

   Cô ấy quỳ niệm Phật ngoài sân, đêm hôm tối tăm lại thêm gió trời lạnh lẽo mà không hề lay động, thực là chí thành chí kính.

   Khi ấy, nếu con muốn lấy của, dù vơ nhặt cả tài sản cũng không ai biết, nhưng con thấy người con gái hiếu hạnh như vậy, nghĩ đến phận mình làm trai càng thêm tủi hổ, lòng tham của con đã tiêu tan hết, con chỉ còn nghĩ thân người cũng như thân mình, lo trông nhìn bà mẹ cô ta chứ không còn nghĩ đến tiền bạc nữa.

   Con sực nhớ tới thầy là một vị cao tăng đại đức, mới thấy con mà thầy đã biết đầu đuôi gốc ngọn, chắc ai cầu khẩn chuyện chi thầy cũng hiểu rõ nên con cả đêm cầu thầy cứu mạng cho bà Quản Oai kẻo tội nghiệp quá. 

   Quả nhiên, đến khi gần sáng, có một vị đạo nhân trong chùa ra đưa cho cô con gái quỳ ngoài sân một chén thuốc. Thuốc có linh nghiệm hết sức, vừa đổ vào miệng là bà Quản Oai đã hắt hơi thở một tiếng mạnh, chân tay nóng lên rồi mở mắt ra một cách tỉnh táo. Bà bảo người con gái: “Con ơi! Ngờ đâu mẹ còn sống được trông thấy mặt con!”.

Bà lại chỉ con mà hỏi: “Có phải nhờ chú này mà mẹ sống lại chăng?”. Cô con gái thưa: “Phải”. Bà bảo con gái lạy tạ ơn con rồi nói: “Mẹ trông chú này cũng thiếu túng lắm, con hãy vào trong nhà lấy một món tiền khá lớn đưa cho chú về tiêu dùng. Người sống hơn đống vàng, con đừng suy ít tính nhiều mà mang lấy tội. Chú túng cũng như mình túng, con lấy mau mang ra đây để chú còn về nghỉ kẻo chú thức khuya mỏi mệt!”.

   Con liền đáp: “Chút công nhỏ mọn đâu dám kể ơn, bà sống lại đây là nhờ lòng hiếu hạnh của cô em chí thành cầu nguyện cảm động đến chư Phật. Tôi không giấu chi bà, tôi chính là một thằng ăn trộm, khi tôi phá cửa vào nhà thấy cô em chí hiếu, cảm phục bội phần nên không nỡ hạ thủ. Một đêm tôi đã giác ngộ được rồi, muôn sự lỗi lầm từ trước xin sám hối, từ nay nhất định cắt tóc đi tu, của cải thế gian tôi không cần dùng làm chi nữa đâu mà bà phải đền ơn đáp nghĩa!”.

   Thưa thầy, sau khi từ giã hai mẹ con bà Quản Oai, con đi một mạch đến đây để bạch thầy xin xuất gia đầu Phật. Con xét lại ăn năn hết sức. Người ta cũng một tâm mà sao lại hiếu hạnh khiêm cung, mình cũng một tâm mà sao lại gian tham độc ác. Nói rộng ra, Phật cũng một tâm mà sao lại từ bi, hỉ xả, nhu hòa, nhẫn nhục, công đức vô lượng vô biên, con cũng một tâm mà sao lại tham sân si hiểm độc, ích kỷ hại người, tội ác vô cùng tận. Như vậy, nghĩ mà ghê mà gớm cho tâm mình, muốn bỏ cái tâm ấy đi, rồi tu theo cái tâm tốt lành như của chư Phật.

   Thưa thầy, con đã trình bày đầu đuôi gốc ngọn, muôn sự về trước đều sám hối cả, xin thầy tin lòng mà thu nhận làm đồ đệ, con nguyện một lòng xin theo lời thầy dạy bảo, dù có chết cũng không chối từ!

   Đại sư im lặng hồi lâu, rồi nhẹ nhàng bảo:

   - Tập quán anh đã nhiều kiếp nhiều đời, phép tắc giới luật nhà Phật e về sau anh chịu không nổi, nhưng anh đã nguyện thì hễ tôi dạy bảo chi anh cũng phải nghe lời, tinh tấn tu học dù thác cũng không nan từ! 

   Sau đó, thầy liền làm lễ thế phát, truyền giới, giảng lý duy tâm và dạy Dũng Mãnh ngồi kiết già niệm Phật theo phép  Nhất Hạnh tam muội. 

   Dũng Mãnh nhờ túc căn đã sẵn, giảng đâu hiểu đó, vừa thọ pháp xong liền tạ ơn thầy và thưa:

   - Con nhiều kiếp, nhiều đời, say mê trong bể khổ, nay nhờ thầy chỉ bảo đã biết đường tu tập. Nhưng con trộm nghĩ con còn phải mang lốt Dũng Mãnh này thì dù có cao đàm diệu luận đến đâu cũng khó lòng phát khởi tín tâm cho thế gian được. Vậy con xin phép thầy tọa thiền niệm Phật dưới gốc cây này, chờ đến khi nghiệp chướng tiêu diệt, thực tướng hiện tiền, bỏ thân này mà vãng sinh Tịnh Độ, về sau may ra mừng Phật thọ ký, con cũng nguyện phân thân trở lại xứ này để cùng thầy hoằng tuyên Phật pháp.

   Đại sư nhủ:

   - Nhất cú Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây phương. Con hãy cố gắng trì niệm, tinh tiến niệm Phật, thì lo gì không chứng được quả vãng sinh Cực lạc.

Từ đấy, mỗi ngày đại sư thường thăm hỏi khuyên nhủ Dũng Mãnh và chỉ đường tu tập. Trong bảy ngày đêm Dũng Mãnh ngồi kiết già nhập định, đến ngày chót phá màn vô minh, thấy được chơn như bản tánh, Dũng Mãnh xét mình sắp xả báo thân, nên đến đảnh lễ tôn sư, giã từ đạo hữu.

   Trưa hôm sau, cả Tăng ni, đạo hữu trong chùa đều đến hộ niệm, bổn đạo xa gần nghe tin đến xem đông vô kể. 

   Thầy Dũng Mãnh ngồi kiết già, hai tay chắp rồi niệm bài kệ rằng:

                    “Biến quan pháp giới,

                    Bản vô nhất vật.

                    Phóng hạ đồ đao,

                    Lập địa thành Phật”.

   Đọc bài kệ rồi, trời đã đúng ngọ, thầy Dũng Mãnh nhập tịch. Mùi hương bát ngát, hào quang sáng ngời. Tăng, ni, đạo chúng lại sờ mình thầy Dũng Mãnh thấy đã viên tịch.

   Nhìn cây đại thọ trước cửa chùa, cành lá đều ửng sắc vàng, các thứ chim tụ về kêu nhịp nhàng như là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Hơn ba ngày, bầy chim mới giải tán…

 

Chết cả gia đình

   Patacara là con gái một gia đình giàu có ở Xá Vệ, gia sản lên đến bốn trăm triệu. Nhan sắc cô tuyệt đẹp, mười sáu tuổi được cha mẹ cho ở tầng chót tòa nhà bảy tầng, canh gác cẩn thận. Tuy vậy, cô vẫn thông gian với gia đồng của mình. Cha mẹ đã hứa sẽ gả cô cho một chàng trai đồng giai cấp. Ngày cưới gần kề, cô bảo tên gia đồng hãy tìm cách mang cô khỏi nơi này, nếu thật sự thương yêu cô. Và họ đồng ý trốn đi. Đến ngày hẹn, cô dậy sớm, ăn mặc dơ bẩn, tóc tai rối bù, còn bết thêm bụi đỏ vào mình, cầm bình đựng nước, giả bộ ra ngoài kiếm nước để đến chỗ hẹn. Rồi cả hai đi thật xa đến một làng nọ sinh sống. Chồng trồng trọt, gom củi và lá trong rừng; vợ xách nước, giã gạo, nấu ăn, làm việc nội trợ. 

   Một thời gian sau cô có mang, cô muốn về nhà cha mẹ sinh nở để được giúp đỡ nhưng anh chồng không chịu, sợ họ bắt tội và hành hạ mình. Cô đòi nhiều lần vẫn không được, nên khi chồng vào rừng, cô gởi nhà cho hàng xóm rồi về nhà cha mẹ. Anh chồng trở về hay được, rượt theo bắt cô trở lại, nhưng đến một nơi cô chuyển bụng, sinh được một bé trai. Cả hai lại trở về nhà. 

   Lần sau có mang, cô cũng bỏ về nhà cha mẹ như trước. Anh chồng tìm theo cũng bắt cô trở lại. Trên đường về, bất ngờ một cơn bão lớn thổi tới. Mưa như trút, sấm sét không ngừng. Đúng lúc đó cô chuyển bụng. Anh chồng đi tìm cây che chòi cho cô lâm bồn. Thấy bụi cây trên ụ mối, anh ta vừa bẻ xuống thì rắn độc trườn ra cắn chết, thân nóng như lửa, mình mẩy tím ngắt.

   Patacara đau bụng dữ dội, chờ hoài không thấy chồng trở lại. Rồi cô sanh đứa thứ hai. Cả hai đứa không chịu nổi gió mưa, khóc thét lên. Cô chỉ có cách áp chúng vào ngực, úp mình xuống chịu trận như thế suốt đêm. Toàn thân như không còn chút máu, người như chiếc lá vàng úa.

   Hừng đông hôm sau, cô lên đường, tay ôm đứa mới sinh đỏ hỏn trong lòng, tay kia đưa cho đứa lớn nắm. Ba mẹ con thất thiểu đi theo đường anh chồng đã đi, và thấy anh nằm chết gần ụ mối. Cô than khóc ai oán rồi đi tiếp. Đến bờ sông Aciravati, nước dâng cao, nhiều chỗ đến thắt lưng. Cô quá yếu không thể lội qua với hai đứa con. Để đứa lớn bên này, cô đem đứa nhỏ qua sông, bẻ một nhánh cây trải đặt nó lên, rồi quay trở lại. Vừa bơi vừa nhìn ngoái lại, đến giữa dòng, thấy một con diều hâu sà xuống quắp đứa bé. Cô hốt hoảng xua tay hét lên: “Bay đi, bay đi!”. Nhưng nó không nghe vì quá xa, và chộp đứa bé bay mất. Bên này, đứa con lớn thấy mẹ quơ tay tưởng gọi mình, cũng bò xuống sông, bị nước cuốn mất. Chồng bị chết, đứa con thì bị chim tha, đứa thì nước cuốn, cô quá khổ thất thểu cố gắng đi về nhà cha mẹ tại Xá Vệ. Gặp một người từ trong thành đi ra, cô hỏi thăm về gia đình mình. Ông kia biết nhưng hình như không muốn nói đến. Cô cứ hỏi riết buộc ông phải nói sự thật, là gia đình cô cả nhà bị trận bão hôm qua làm sập đè chết hết. Hàng xóm và thân nhân vừa thiêu họ xong, khói còn bốc lên trên giàn hỏa từ xa vẫn trông thấy. Cô nghe xong quá đau đớn nổi điên ngay, y phục rớt hết mà không hay biết. Cô trần truồng như thuở mới sinh, lang thang khóc lóc thở than:

              Hai con ta đã chết,

              Chồng ta chết giữa đường.

              Cha mẹ và anh cũng,

              Đã thiêu trên lửa hừng.

   Ai thấy cô cũng đều la lên: “Đồ điên, đồ điên!”. Kẻ ném rác, kẻ tung bụi vào cô.

   Lúc ấy, Thế Tôn ngụ ở Tịnh xá Kỳ Viên, đang thuyết pháp giữa hàng môn đệ. Ngài trông thấy cô từ xa và biết cô đã viên mãn một trăm ngàn kiếp, tròn lời nguyện và đạt đến cứu cánh.

   Do đó, Thế Tôn khiến cô đến Tịnh xá. Các đệ tử la lên đừng để cô điên vào. Nhưng Phật bảo cứ để cô đến, rồi nói với cô:

   - Này cô, hãy tỉnh trí lại đi!

   Nhờ thần lực của Phật, cô lập tức khôi phục tâm trí. Ngay đó, cô nhận ra y phục mất hết, cảm thấy xấu hổ và sợ tội, cô vội úp mình xuống đất. Một người ném cho cô y khoác. Mặc xong, cô phủ phục dưới chân Phật thưa:

   - Bạch Thế Tôn, con xin quy y Ngài, nương tựa Ngài. Con có một đứa con bị diều tha, một đứa bị nước cuốn. Chồng con chết, cha mẹ anh em con cũng chết

Phật bảo:

   - Patacara, đừng phiền muộn. Ngươi đã đến với người có thể là nơi ẩn trú, nơi che chở, nơi nương tựa cho ngươi. Những điều ngươi kể đều đúng cả. Cho đến ngày nay, qua biết bao nhiêu vòng luân hồi, ngươi đã khóc vì mất con, mất người thân, nước mắt rơi nhiều hơn nước bốn biển.

   Và Ngài nói kệ sau:

                 Nước bốn biển ít hơn 

                 So với lệ nước đổ 

                 Vì sợ và quẩn trí,

                 Tại sao còn phóng dật?

   Phật giảng giải cho cô hiểu thân người là giả tạm, có sinh phải có tử. Sống là cha mẹ chồng vợ anh em con cháu, chết thì đường ai nấy đi trong sáu nẻo luân hồi, không ai chịu thay nghiệp quả cho ai. Mỗi người nên nhận thức sự thật của kiếp sống giả tạm này, tinh tấn tu hành để được giải thoát khỏi khổ đau.

   Nghe Phật giảng giải, cô như người sắp bị chết đuối được cứu vớt. Tâm cô trở nên sáng suốt, những khổ đau lắng dịu, liền xin Phật xuất gia. Phật liền đồng ý. Về sau, cô nỗ lực tu hành và cũng chứng được Thánh quả. 
   Thật là hạnh phúc cho Patacara, trong sự khổ cùng cực của cuộc đời, nếu không gặp Phật cô sẽ ra sao? Quả thật, Phật là một bậc đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn của nhân loại.

 

 

Một việc nhỏ

   Một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn đứa con nhỏ. Dịp hè, cùng đi nghỉ mát ở một bãi biển. Bọn trẻ rất thích tắm biển và xây những tòa lâu đài trên cát. Bố mẹ chúng thuê một cái lều ngồi uống nước trên bờ, dõi nhìn các con vui đùa không quá xa ngoài kia phía trước mặt.

   Thế rồi, họ chợt trông thấy một bà cụ già nhỏ nhắn, ăn mặc xuềnh xoàng, trên tay cầm một chiếc túi cũ đang tiến lại. Tóc bà đã bạc trắng, bị gió biển thổi tốc lên càng làm cho khuôn mặt nhăn nheo của bà thêm khó coi. Bà cụ đang lẩm bẩm một điều gì đó, dáo dác nhìn rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt những thứ gì đó trên bãi biển, bỏ vào cái túi. 

   Hai vợ chồng không hẹn mà cùng vội chạy ra gọi con lại, căn dặn chúng phải tránh xa người đàn bà khả nghi kia. Dường như, họ cố ý nói to cho bà ta nghe thấy để bà ta nên đi chỗ khác kiếm ăn.

   Cụ già không biết có nghe thấy gì không giữa tiếng sóng biển ì ầm, chỉ thấy bà cứ từ từ tiến về phía họ. Thế rồi, cụ dừng lại, nhìn thấy đứa trẻ dễ thương đang ngơ ngác nhìn mình, bà mỉm cười với chúng nhưng không ai đáp lại, chỉ giả vờ ngó đi chỗ khác, bà cụ lại lẳng lặng làm tiếp công việc khó hiểu của mình. Còn cả gia đình kia thì chẳng hứng thú tắm biển nữa, họ kéo nhau lên quán nước phía trên bãi biển.

   Trong lúc nói chuyện với người phục vụ bàn ăn cùng những khách hàng trong quán, hai vợ chồng quyết định hỏi thăm xem bà cụ khả nghi kia là ai và họ… sững sờ! Bà cụ ấy là người dân ở đây, từng có một đứa cháu ngoại vì bán hàng rong trên bãi biển, vô tình đạp phải mảnh chai rồi bị nhiễm trùng, sốt cao, đứa bé bị bệnh uốn ván. Từ dạo ấy, thương cháu đến ngẩn ngơ, bà cụ cứ lặng lẽ đi dọc bãi biển, tìm nhặt những mảnh chai, mảnh sắt hoặc hòn đá có cạnh sắc. Mọi người hỏi lý do thì bà đáp mà đôi mắt ướt nhòe: “Ồ, tôi chỉ làm một việc nhỏ thôi ấy mà, để các cháu bé có thể vui chơi trên bãi biển mà không bao giờ bị chết như đứa cháu đáng thương của tôi!”.

   Nghe xong câu chuyện, người chồng vội chạy ngay xuống bãi biển mong có thể nói một lời xin lỗi và một lời biết ơn chân thành, nhưng bà cụ đã đi xa rồi. Bóng bà chỉ còn là một chấm nhỏ trên bãi biển vắng người khi chiều đang xuống…

 

Lòng lành đổi tướng thay tên

   Người thọ âm dương của trời đất và khí huyết của cha mẹ mà sinh ra, từ bậc vua quan cho đến bậc dân giả, cũng đều như nhau cả. 

   Nhưng trong đó, máy tạo hóa có phân biệt khác nhau là cái tướng; bởi vậy nên người tuy đông mà không ai giống ai hết.

Tướng ấy thể hiện người: sang, hèn, giàu, khó, yểu, thọ, ngay, gian v.v… hễ hình hài mang lốt tướng nào, thì vận sự thành theo bậc ấy, không khi nào sai.

   Hồi đời vua Vĩnh Lạc, nhà Minh bên Tàu, có m�