Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi (Ba Tư Nặc), thuộc vương quốc Kosala. Tên của chàng là Ahimsaka (người thất bại). Chàng được gởi đến thành phố Taxila để học hành. Ahimsaka rất thông minh và biết vâng lời thầy, nên chàng được cả Thầy lẫn bà vợ thầy yêu mến. Điều này đã khiến cho các học viên khác gạnh tỵ với chàng. Vì thế họ tìm đến thầy giáo và đã vu cáo Ahimsaka có mối quan hệ bất chính, trái đạo lý với bà vợ thầy.
Thoạt tiên, không thầy không tin lời họ; nhưng sau khi nghe điều ác đó nhiều lần, (điều gì sai, nói hoài, nói mãi sẽ trở thành chân lý, đó là theo thói thường của cuộc đời này, nên người đệ tử Phật phải chánh niệm và biết phân biệt trước những lời ác như thế này, lời của người dịch), ông nghĩ rằng đó là sự thật và thề sẽ trả thù Ahimsaka.
Ông thầy nghĩ rằng việc giết người học trò sẽ gây ra tai tiếng, ảnh hưởng xấu đến ông. Cơn giận dữ đã thúc giục ông nghĩ đến một việc không thể tưởng tượng được đối với chàng thanh niên Ahimsaka trẻ tuổi và tội nghiệp ngây thơ kia. Ông ta bảo cậu học trò phải tìm giết một ngàn người và mang về ngón tay cái từng người để trả học phí về việc dạy chàng. Cố nhiên chàng thanh niên không chấp nhận và không muốn nghĩ đến một việc quá kinh khủng như vậy. Vì thế chàng đã bị tống cổ ra khỏi nhà thầy và trở về với gia đình cha mẹ.
Khi Cha chàng biết được lý do tại sao Ahimsaka đã bị đuổi học, ông ta vô cùng tức giận đứa con này và quyết không nghe lời giải thích của con. Cũng chính trong ngày ấy, ngay lúc trời đổ mưa như trút nước, người cha đã xua đuỗi Ahimsaka phải ra khỏi nhà. Ahimsaka phải ra đi trong nỗi buồn tủi khổ đau. Vì thế Ahimsaka chạy đến mẹ chàng và xin Mẹ lời khuyên. Nhưng bà không dám chống lại quyết định của chồng. Sau đó Ahimsaka chạy đến nhà vị hôn thê của chàng để tìm sự cứu giúp (theo cổ tục hứa hôn từ lâu trước khi đi đến hôn nhân thực sự ở Ấn Độ). Nhưng khi gia đình này sau khi biết nguyên do Ahimsaka bị đuổi học thì họ cũng xua đuổi chàng.
Nỗi ô nhục, giận dữ, sợ hãi và tuyệt vọng của Ahimsaka đã khiến cho chàng điên tiết lên. Trong nỗi đau đớn tột cùng đó, đầu óc của chàng chỉ nhớ lại mệnh lệnh khắc nghiệt của thầy: "góp nhặt một ngàn ngón tay người". Và vì thế mà chàng bắt đầu lao vào cuộc chém giết như vậy, những ngón tay góp nhặt được chàng treo chúng lên cành cây.
Nhưng chúng bị bầy quạ và diều hâu cắn phá, sau đó chàng phải xâu lại và mang một vòng ngón tay trên cổ để theo dõi số lượng. Cũng vì điều này mà dần dần tên giết người này được biết qua cái tên Angulimala (người đeo vòng ngón tay) và hắn đã trở thành nổi hãi hùng cho vùng nông thôn này. Chính đức vua Ba Tư Nặc đã nghe được tin tức tàn sát của Angulimala và xuống lệnh truy bắt hắn. Lúc đó bà Mantani, mẹ của Ahimsaka, biết được lệnh truy nã của vua, bà đã chạy vào rừng với những nỗ lực tuyệt vọng để cứu con. Lúc ấy, vòng đeo cổ của Angulimala chỉ còn thiếu một ngón tay nữa là đủ túc số 1000.
Đức Phật biết được nỗ lực ngăn cản của người mẹ đối với con bà và nghĩ rằng nếu Ngài không can thiệp vào thì chắc chắn Angulimala, đang tìm người cuối cùng để làm cho đủ số một ngàn, hắn sẽ gặp mẹ mình và hắn có thể sẽ giết bà. Trong trường hợp đó, hắn sẽ chịu đau khổ mãi về sau vì nghiệp ác ngũ nghịch tội của mình. Do lòng bi mẫn cứu độ, Đức Phật xuất hiện ở khu rừng kia.
Sau nhiều ngày đêm mất ngủ, Angulimala rất mệt mỏi và dường như đã kiệt sức, hắn rất nôn nóng tìm cách giết người cuối cùng để đủ số lượng một ngàn và hoàn tất phận sự của mình, hắn quyết giết người đầu tiên mà mình gặp được. Khi nhìn xuống từ nơi ẩn mình trên núi, y nhìn thấy một người đàn bà trên con đường phía dưới. Y muốn làm trọn lời thề của mình để có đủ một ngàn ngón tay, nhưng khi đến gần, y nhìn thấy người đó chính là mẹ mình. Cũng cùng lúc ấy, Đức Phật đang đi tới, và Angulimala liền định thần quyết giết chết người du sĩ kia để thế mạng cho mẹ mình. Y liền vung dao bắt đầu đi theo Đức thế Tôn. Đức Phật vẫn di chuyển bình thường trước mặt y. Nhưng kỳ lạ thay, Angulimala không thể đuổi kịp được Ngài. Cuối cùng, y quát lên: "Này, tên khất sĩ kia, hãy đứng lại ! Đứng lại !", và đấng Giác Ngộ trả lời: "Ta đã đứng lại từ lâu lắm rồi, chính ngươi mới là người chưa đứng lại thôi !" Angulimala không thể hiểu được ý nghĩa của những lời nói này. Vì thế y hỏi lại: "Này tên khất sĩ, tại sao ông nói rằng ông đã dừng lại còn tôi vẫn chưa dừng ?"
Đức Phật đáp : "Ta nói rằng ta đã dừng lại là vì ta đã từ bỏ việc giết hại chúng sanh. Ta đã từ bỏ thói bạo hành, tàn sát mọi loài và ta đã an trú vào lòng từ bi đối với muôn loài, lòng kham nhẫn và trí tuệ do tư duy quán sát. Còn ngươi vẫn chưa từ bỏ việc giết hại và đối xử tàn bạo với người khác cũng như chưa an trú vào lòng từ bi và kham nhẫn đối với mọi loài hữu tình. Do đó, ngươi vẫn là người chưa dừng lại".
Nghe qua những lời này, Angulimala như được nhắc nhở thực tại và suy nghĩ, đây là những lời của một bậc hiền nhân. Vị khất sĩ này hiền thiện và rất mực dũng cảm như thế chắc hẳn vị này là một vị lãnh đạo các khất sĩ . Quả thực, chính Ngài hẳn là đấng Giác Ngộ rồi đây. Hẳn ngài đến đây chỉ vì mục đích giúp cho mình thấy được ánh sáng. Suy nghĩ như vậy, hắn ném cây đao xuống đất và cầu lạy Đức Thế tôn tiếp nhận y vào giáo đoàn khất sĩ, Đức Phật đã chấp thuận lời cầu xin.
Trong khi đó đức vua và quân lính tìm đến bắt Angulimala, họ thấy người này đang ở trong tinh xá của Đức Phật. Biết rằng Angulimala đã từ bỏ ác đạo của mình và trở thành một vị tỳ kheo, vua và quần thần đều đồng ý để yên cho vị này tu học. Suốt thời gian đó Angulimala thành tâm tu tập thiền định.
Tuy nhiên tu sinh Angulimala vẫn không định tâm được vì ngay trong lúc thiền định tĩnh lặng, Tôn giả vẫn thường nhớ lại quá khứ cùng với những tiếng gào thét thê thảm của những nạn nhân bất hạnh. Do một quả báo từ nhựng ác nghiệp kia, lúc đi khất thực trên đường phố, Tôn giả đã trở thành mục tiêu của mọi thứ gậy gộc bị đánh, bị ném đá và ngài thường trở về tinh xá với đầu bị thương chảy máu, đầy những vết thương bầm tím. Ngài được Đức Phật an ủi: "Này đệ tử Angulimala, con đã từ bỏ việc ác, hãy nhẫn nhục. Đây là kết quả của những ác nghiệp mà con đã gây tạo trong đời này. Đáng lẽ ác nghiệp sẽ còn làm cho con khổ đau qua vô lượng kiếp về sau nếu như trước đây ta đã không gặp con".
Rồi một buổi sáng nọ, trong lúc đang trên đường đi khất thực ở thành Savatthi (Xá Vệ), Tôn giả Angulimala nghe tiếng ai đang kêu khóc đau đớn.Tôn giả chạy đến và biết đó là một thai phụ đang chuyển dạ và gặp khó khăn khi sanh con. Tôn giả suy nghĩ tất cả chúng sanh trên thế gian này đều phải chịu đau khổ như vậy. Động lòng từ bi nhưng không biết cách nào để giúp, Tôn giả trở về tinh xá và kể lại nỗi khổ đau của người phụ nữ đáng thương kia với Đức Từ Phụ. Đức Phật đã dạy Tôn giả hãy nói lên những lời chân thật của lòng mình, những lời đó về sau này có tên là Anggulimala Paritta (thần chú hộ mệnh Angulimala). Ngài liền đi đến trước mặt người sản phụ đang chịu đau đớn kia, và ngồi xuống cách cô ấy một tấm màn che và nói lên những lời sau: "Này chị, từ ngày tôi đắc quả A la hán, Tôi chưa từng cố ý sát hại một mạng sống nào của sinh linh. Nhờ sự thật này, cầu cho chị được an lành và đứa bé sắp sanh của chị cũng được an lành".
Ngay lập tức người sản phụ liền sanh con một cách dễ dàng. Cả mẹ lẫn con đều được khỏe mạnh. Cho đến nay nhiều người vẫn dùng đến thần chú hộ mênh này.
Tôn giả Angulimala thích sống độc cư và biệt lập. Sau đó Tôn giả viên tịch một cách yên bình. Là một vị A la hán, Tôn giả đã chứng đắc và nhập vào cõi Vô dư Niết bàn.
Lúc đó chư Tỳ kheo thỉnh ý Đức Thế Tôn về nơi tôn giả Angulimala tái sanh, và khi Đức Thế Tôn cho biết pháp tử Angulimala đã chứng đắc Vô dư Niết bàn, thì chư vị không thể tin điều đó. Vì thế chư vị lại hỏi rằng liệu có thể nào một người đã giết quá nhiều người lại chứng đắc Niết bàn Vô dư y chăng. Trước câu hỏi này, Đức Phật đáp: "Này các Tỳ kheo, Angulimala đã tạo quá nhiều ác nghiệp, vì vị ấy không có duyên gần gũi bạn lành. Nhưng sau đó, đã gặp được Chánh Pháp, gần gũi thiện hữu trí thức và nhờ sự giúp đỡ của họ, lắng nghe lời giáo huấn của họ mà vị ấy đã trở nên kiên định và chánh niệm trong việc tu tập, học hỏi giáo pháp và thiền định. Chính vì thế mà ác nghiệp của vị ấy đã được thiện nghiệp chuyển hóa giải trừ và tâm của vị ấy đã hoàn toàn đoạn trừ mọi lậu hoặc phiền não. Đức Phật đã nói bài kệ tán thán về tôn giả Angulimala:
"Ai dùng các hạnh lành
Xoá mờ bao nghiệp ác
Chiếu sáng cõi đời này
Như trăng thoát khỏi mây"
Sức mạnh của lòng từ bi bao giờ cũng mạnh hơn bất cứ ác nghiệp nào. Và đó cũng là điều kiện tuyệt đối để đi tới giác ngộ và giải thoát.
(Thích Nguyên Tạng, dịch từ Angulimala: A Story of the Power of Compassion
(As told by Ven. Walpola Piyananda Thera in Love in Buddhism)